Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015

Nước ngọt sắp trở thành thị trường kinh doanh siêu lợi nhuận

Theo ước tính, tổng lượng nước trên trái đất vào khoảng 1.386 triệu km3, tuy nhiên, trên 96% số đó là nước mặn. Trong số hơn 3% nước ngọt còn lại, 68% lại tồn tại dạng băng và sông băng; 30% là nước ngầm. Nguồn nước mặt như nước trong các sông hồ, chỉ chiếm khoảng 93.100km3. Đây là những nguồn nước chủ yếu mà con người thường xuyên dùng hàng ngày.


Số lượng ít ỏi nước ngọt sẵn sàng để tin dùng lại phân bố không đồng đều. Khu vực châu Á và Nam Mỹ được cho là có nguồn tài nguyên nước dồi dào nhất, trong khi châu Phi, Trung Đông lại là những khu vực liên tục hạn hán. Hơn 1/3 của gần 7 tỷ người trên địa cầu hiện đang phải sống trong cảnh khan hiến nước ngọt. Đến năm 2025, con số này sẽ tăng gần gấp đôi.


Trong khi dân số không ngừng tăng thì các nguồn nước ngọt lớn lại đang ngày một bị thu hẹp. Sông Jordan, một dòng sông lớn ở Tây Nam Á, dài 251km, chảy từ chân núi Hermon vào biển Chết, là một trong một số dòng sông thiêng liêng nhất thế giới, vốn bồi dưỡng nước sạch cho hàng trăm triệu người, đang dần bị cạn kiệt. Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra với hàng loạt các con sông lớn vựa nước ngọt khác của nhân loại như sông Amazon (Nam Mỹ), sông Missisipi (Mỹ), sông Ấn, sông Hằng (Ấn Độ)…

Xem thêm:

thiếu nước

Việc tàn phá rừng chính là nguyên do khiến các con sông ngày càng trở lên khô cạn. Các nguồn nước ngầm bị khai thác quá mức một cách vô tội vạ cũng đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt hoặc ô nhiễm nặng. Nếu như trong quá khứ, con người tiến hành các cuộc chiến tranh để tranh giành nhau các mỏ dầu, mỏ vàng, bạc, kim cương thì trong tương lai, nước sẽ là nguồn gốc số một của các cuộc xung đột.


Khái niệm an ninh nước sẽ có vai trò quyết định đối với sự tồn vong của một quốc gia, một dân tộc chứ không phải là an ninh năng lượng, an ninh lương thực. Tình trạng thiếu nước sạch đã, đang và sẽ còn nghiêm trọng hơn trong tương lai, đe dọa cuộc sống hiện đại của hàng trăm triệu người trên thế giới. Theo Liên Hiệp Quốc, sử dụng nước không đảm bảo quản sinh là một trong số các nguyên do gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Việc thiếu nguồn nước canh tác cũng khiến mùa màng bị thất thu, đem đến nạn đói gay gắt kéo dài cho các nước châu Phi.


Đến năm 2035, sẽ có khoảng 3 tỷ người, chiếm gần 50% dân số trái đất phải đối mặt với các khó khăn do bi kịch thiếu nước, ở các mức độ khác nhau. Ngân hàng thế giới cũng đồng quan điểm khi cho rằng, trong tương lai không xa, nước sẽ là nhân tố có ảnh hưởng chọn lựa đến đời sống của toàn nhân loại như gây mất ổn định chính trị, xung đột vũ trang hay, giảm tăng trưởng kinh tế, nghèo đói, bệnh tật.


 


Hàng tỷ người trên trái đất sẽ phải đối mặt với việc thiếu nước sạch


Bên cạnh việc khan hiếm, việc nước ngọt trên địa cầu bị ô nhiễm cũng khiến nguồn cung nước sạch bị giảm mạnh, dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề. Nghiên cứu của Viện Nước quốc tế Stockholmockholm (SIWI) cho thấy nước bẩn đã giết chết nhiều người hơn so với động đất và chiến tranh. Ước tính mỗi ngày trên thế giới có tới 5.000 trẻ em bị chết do các bệnh liên quan đến nước bẩn.


Trong khi đó, theo một báo cáo của Liên Hiệp Quốc, có tới 1,1 tỷ người không tiếp cận được nước sạch và hơn 2,6 tỷ người không tưởng điều kiện vệ sinh cơ bản. 1,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi và 4,43 triệu em ở độ tuổi đến trường bị chết mỗi năm do các bệnh liên quan đến nước và vệ sinh môi trường.


Một nghịch lý là người dân ở các nước nghèo phải tốn nhiều tiền cho nước sạch hơn so với các nước phát triển từ 5-10 lần. Nhiều cư dân vùng Hạ Sahara ở châu Phi có ít hơn 20 lít nước mỗi ngày, và 2/3 không xẩy ra nhà vệ sinh đạt chuẩn. Ngược lại, bình quân một người Anh dùng 150 lít nước/ngày trong khi người Hoa Kỳ dùng 600 lít/ngày.


Liên Hiệp Quốc cũng cho biết, đa số các nước đang phát triển chi ít hơn 1% GDP hệ thống bổ sung nước sạch cho người dân và toàn bộ hệ thống đó phục vụ cho người giàu ở thành thị. Chính vì điều này, người nghèo mất nhiều thời gian hơn để có được nước dùng. Người dân Hạ Sahara bỏ ra 40 tỷ giờ mỗi năm để đi lấy nước, tương đương 1 năm trời làm việc của toàn bộ người lao động ở Pháp.


Nước ngọt một ngành kinh doanh mới đầy béo bở


Giá nước ngọt sẽ được niêm yết trên các thị trường hàng hóa lớn nhất thế giới, và giới đầu cơ sẽ đặt cược tài sản của người dùng nó vào các cơn mưa hay một trận bão tuyết, đó không phải là viễn cảnh xa vời. Giáo sư Frederick Kaufman, đại học báo chí New York (Mỹ) đã cảnh báo về điều này trong một cuốn sách có tiêu đề phố Wall thiếu nước. Rất đông các nhà khoa học đồng tình với dự báo của ông. Các nhà giữ gìn môi trường cũng đồng tình rằng, đã đến lúc phải niêm yết giá cho từng galon nước ngọt để giữ gìn nguồn tài nguyên duy trì sự sống nhưng đang ngày một cạn kiệt này.


Thật ra, thị trường mua bán nước đã tồn tại từ khá lâu tại một số nơi mà nước ngọt có chức năng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày kinh tế, xã hội. Từ năm 1996, các hộ nông dân tại Westlands California (Mỹ) đã phải trả hàng chục triệu USD cho nguồn nước tưới tiêu cánh đồng rộng 2.000km2 của mình. Đổi lại, họ thu hoạch được lượng nông sản trị giá khoảng 1 tỷ USD/năm.


Nước Anh cũng phải chi ra tới 800 tỷ USD cho một dự án đảm bảo duy trì nguồn nước, thời kỳ 2010-2015. Trong 10 năm qua, tỷ lệ tăng trưởng của ngành cung cấp nước ngọt ở Anh đã tăng 450%, lợi nhuận của công ty tăng 692%. Tiền lương giám đốc điều hành cho các tập đoàn tư nhân chuyên cung cấp nước có mức tăng đáng kinh ngạc: 708%. Ngành công nghiệp xử lý nước thải cũng nhờ đó mà phát đạt theo.


Làn sóng tư nhân hóa các nguồn nước tại một vài quốc gia như Argentina, Bolivia, Ghana, Mexico, Malaysia, Nigeria và Philippines từ đầu một vài năm 1990 đã giúp một vài nước này thu về một vài khoản tiền hàng tỷ USD từ các tập đoàn đa quốc gia, những người sớm biết rằng, họ đang đầu tư vào một hàng hóa có giá trị rất là to lớn. Hiện nay, việc cung cấp nước cho người dân và doanh nghiệp là một ngành công nghiệp có doanh thu tới 400 tỷ USD mỗi năm. Số tiền đó tương đương 40% so với ngành dầu mỏ, và lớn hơn ngành dược phẩm thế giới 30%. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, nước là một ngành công nghiệp trị giá 100 tỷ USD.


Ngành công nghiệp nước đã chuyển mình mạnh mẽ từ ngành ít lợi nhuận thành một ngành được ví von là vàng xanh. Hiện, lĩnh vực mới mẻ đầy béo bở này trên địa cầu đang tập trung vào tay 3 đại gia, gồm Vivendi của Pháp và Thames Water của Anh, nhưng thuộc sở hữu của tập đoàn Đức RWE. Năm 1993, 3 đại gia này chỉ hoạt động tại 12 nước, nhưng đến nay, họ là nhà bồi bổ nước sạch cho 56 nước.


Bên cạnh việc bổ sung nước uống qua hệ thống đường ống như các đại gia Suez, Vivendi và Thames Water, các công ty tư nhân cũng thu lợi lớn từ hoạt động bán nước uống đóng chai, với doanh thu ước tính hơn 50 tỷ USD/năm. Người Hoa Kỳ ước tính chi mỗi năm 11 tỷ USD cho nước uống đóng chai, và con số này mỗi năm một tăng vì nhu cầu đối với nước uống đóng chai cũng tăng nhanh theo dân số và theo sự nóng lên của trái đất. Tỷ lệ tăng trưởng sản lượng hàng năm khoảng 9,5%, tăng trưởng doanh thu khoảng 8,5%, còn cao hơn cả mức 6% của ngành nước ngọt.


Cho đến nay, nước đóng chai là ngành tăng trưởng nhanh nhất trong các ngành công nghiệp ẩm thực trên thế giới. Các đại gia nước uống đóng chai trên địa cầu là các tên tuổi như Nestle, Pepsi, Coca Cola đều có doanh thu trên 1 tỷ USD/năm từ nước đóng chai.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét